Miếng mỡ luộc .
Sáng hôm nay, vừa rửa chiếc xe xong thì vợ chồng một người bạn thân đến nhà chơi, chúng tôi dẩn bạn ra vườn cây phía sau nhà để nhìn một số hoa thanh long đang nở rộ. Nhìn những nụ hoa màu trắng toát nở ra với biết bao là ong mật đang tranh nhau hút nhụy hoa. Hôm nay sao nhiều ong, loại ong mật không biết từ đâu bay đến nhiều hơn mọi năm. Một trong số người bạn già, dân qua Mỹ định cư theo diện tỵ nạn chợt nhìn tôi và nói:
-Ê Trực, tao nhìn đám ong nầy sao mà tao nhớ mầy một thời ở trại 6 thuộc liên trại 3 lúc ở Hoàng Liên Sơn quá .
Tôi ngạc nhiên quay lại hỏi:
-Thế bạn nhớ gì ?
Anh bạn nhắc lại:
-Nhớ một miếng tổ ong mật mầy tìm ở đâu mang về một lon guygoz đầy, lúc đó anh em mình ăn sao ngon quá. Bây giờ ăn mọi món bánh ngọt nào không bao giờ bằng cái ngọt của miếng ổ ong mật ngoài Hoàng Liêng Sơn hồi đó.
Nhắc đến kỷ niệm nầy làm tôi nhớ cái đồi ba dốc, nơi mà tôi hàng ngày trèo lên chiếc đồi đó để chặt cây, lấy giang và nứa về cất trại trong thời gian mới chuyển đến trại nầy. Chính nơi đây tôi đã ăn một số ổ ong mật, có lần vì cố gắng lấy cho được cái ổ ông mà súy rớt tòm xuống một cái hố sâu. Hồi đó, những người tù như chúng tôi lúc nào cũng trong tình trạng đói khát, thèm mở và thèm đường, hai chất ngọt và chất mở lúc nào cũng rất thèm trong cổ họng.
Tình trạng đói khát đã làm cho con người mơ đến chuyện ăn uống . Trong câu chuyện hàng ngày lúc nào cũng nhắc nhở đến các món ăn. Đang cuốc đất,dẩy cỏ, trồng sắn..v..v..câu chuyện lanh quanh cũng nhắc nhở đến món ăn, hoặc bàn nhau cách nấu nướng . Kể cho nhau từng con đường với các nhà hàng nổi tiếng về các món ăn tại Saigon, Cholon.Thậm chí nhiều người còn làm những sổ nhỏ ghi chép cách nấu nướng, một hình thức làm cho cơ thể đở thèm.
Tiêu chuẩn của tù rất đơn giản bằng các chất độn, khi thì khoai mì, khoai lang, bo bo với môt ít cơm trắng, một ít cá khô, lâu lâu mới được một chút thịt hoặc cá. Những ngày lể như lể 2/9, tết cổ truyền, tiêu chuẩn của trại tương đối khá hơn chút đỉnh như có thêm thịt bò thịt heo, khẩu phần ăn tương đối khá hơn. Tết thì có thêm tiêu chuẩn bánh chưng và bánh mứt, chỉ có những dịp như vậy mới có thể có thêm chất béo và chất ngọt. Khi còn trong sự giam giử tại các trại do quân đội điều hành, dù sao còn có một chút mã thượng, sự đi lại còn có chút thoải mái, không bị nhốt kính trong phòng với sự kiểm soát gắt gao như khi được giao lại cho bên công an kiểm soát. Khẩu phần ăn bên quân đội tương đối còn khá hơn bên công an, việc cho cải thiện thêm tương đối còn khá hơn, nên dầu sao sức khỏe trong thời gian nầy có suy sụp nhưng tương đối còn chịu đựng được dù lúc nầy chưa có cho thăm nuôi và gởi quà. Khi được giao qua công an, chánh sách giam giử hoàn toàn thật hà khắc và vô nhân đạo. Họ đối xử với tù không còn chút tình người, mọi sự di chuyển là bị còng tay, họ sẳn sàng giam cầm người tù vào chế độ biệt giam, hay còn gọi là kiên giam bất cứ mọi lý do nào mà họ cho là chống đối, thức ăn là theo chế độ bóp bao tử. Giai đoạn nầy, tù chánh trị chết nhiều nhất, nhất là vào những năm 78,79,80 khi chưa có chánh sách thăm nuôi. Tù chết vì suy dinh dưởng và kiệt sức!
Vì vậy giai đoạn bi đát nầy, bản chất con người bộc lô ra rỏ nét nhất, nhất là lúc chia thức ăn. Người lảnh trách nhiệm chia thức ăn, nếu người ấy chia công bằng thì không có chuyện cải vả. Nhưng gặp người xấu tánh, khi chia đến phần của mình thì chia nặng tay hơn, thịt thà nhiều hơn, thường có chuyện không hay trong số tù vì quá đói trong giai đoạn nầy. Để cho công bằng và tránh những chuyện không hay, cách hay nhất là mọi người để phần đựng thức ăn của mình, khi người có trách nhiệm chia xong, mọi người quay lưng và bốc số, người nào trúng số nào thì lấy phần ăn đó cho dù cái đồ đựng không phải của mình. Đây là cách áp dụng của hầu hết các đội tù. Nói đến vấn đề quay lưng bốc số, hình ảnh nầy thực ra không hay gì, nhưng trong cái địa ngục trần gian ấy, thật ra không còn cách nào hay hơn và nó nói lên một chế độ thật vô nhân cùa cái chánh sách giam giử tù mà họ gọi là nhân đạo.
Vì khát khao hai chất ngọt và béo, nên người tù chỉ nghỉ đến làm sao có đường và mở để ăn cho đở thèm, nhất là ai cũng trong giai đoạn hầu như chờ chết. Đối với tôi, lúc bấy giờ nhìn thấy trong phần ăn được chia có miếng mỡ thì tôi ăn tôi thích hơn là phần thịt và ăn miếng mỡ, tôi ngậm trong miệng mà nghe ngon vô cùng. Lúc bấy giờ tôi nghỉ rằng nếu mình có cục mở luột thì mình ăn một kí lô dể như không.
Tôi nhớ lại một kỷ niệm tại trại 6 thuộc đoàn 776, một anh bạn tù trong khi đi đốn giang chẳng may anh ấy rơi xuống một cái hố sâu và không lên được, tôi không hay anh ấy rơi xuống hố. Khi tôi vừa đến khu vực nầy, tôi bổng nghe văng vẵng :
-Có ai ở trên đó không, làm ơn cứu tôi với, tôi bị trợt rơi xuống hố, lên không được.
Khi tôi phát hiện ra anh ta dưới hố, tôi phải đốn một cái cây khá dài và đưa xuống hố, và nhờ vậy mà anh đã lên được. Anh cám ơn tôi rối rít vì nếu không ai hay biết, chắc chắn anh sẽ trải qua đêm dưới cái hố sâu, đêm xuống anh ấy làm sao chịu nổi cái rét thấu xương, hơn nữa lại còn nhiều đe dọa bởi thú rừng và rắn độc. Anh chỉ cho tôi xem cây quả mà ở Mỹ gọi là cây fig, một trái cây có chất mật bên trong ăn rất ngọt và ngon khi trái chin. Nhiều người vì quá đói và ngộ độc vì ăn trái cây rừng. Từ đó, tôi và anh ta trở nên bạn thân cùng chia sẽ thức ăn cho nhau. Có lần đội anh lảnh nhiệm vụ làm bếp, thời gian nầy anh ta thường chia tôi muối và tôi phải giấu muối để mà ăn. Nhờ muối nầy mà tôi và anh Châu Phước Vĩnh, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 6 quân cảnh thuộc Biệt Khu Thủ Đô thường hay ăn cơm với muối ớt. Ớt nầy là loại ớt rừng mà tôi hay hái mổi khi đi rừng. Một hôm anh bạn làm nhà bếp nói nhỏ với tôi :
-Anh Trực, tối nay anh đi xuống nhà bếp, tôi cho anh ăn mỡ luộc. Hôm qua làm heo, tôi có cắt giấu một miếng mỡ để dành cho anh, nhớ nhé tôi chờ anh đó.
Thật ra tôi rất ngần ngại, vì từ khu vực chổ đội tôi ở, tôi đi xuống nhà bếp cũng hơi xa, hơn nữa, nếu bị cán bộ phát hiện thì phiền. Nhưng cơn thèm mỡ nó lấn át cái sợ nên cuối cùng tôi mò xuống bếp vì anh bạn đang chờ. Tôi nghỉ rằng tôi sẽ ăn miếng mở nhanh rồi quanh trở về. Khi tôi xuống, hai người gặp nhau và thì thầm rất nhỏ trong đêm tối. Anh bạn lấy miếng mở ra từ trong bao đựng muồi hột, anh ấy rửa vội vã miếng mỡ và giao cho tôi và bảo tôi ăn từ từ. Thật tình mà nói, miếng mỡ tôi ước chừng khoảng 300 gr, tôi nghỉ rằng tôi có thể ăn một cách dễ dàng, nhưng khi ăn chừng 100 gr tôi đã cảm thấy ngán tận cần cổ, miếng mỡ nầy bị muối thấm vào nên khá mặn. Tôi không ăn hết được và giao phần còn lại cho anh bạn. Tôi từ già anh bạn cả hai trở về để ngủ. Tối hôm đó tôi bị “Tào tháo rượt “ hầu như suốt đêm, khổ nổi hố xí lại nằm trên lưng chừng đồi, đường đi thật là trơn trợt. Tại trại quân đội, mổi khi muốn đi ra ngoài trong phạm vi trại giam, phải báo cáo lớn tiếng như sau :
-Báo cáo cán bộ, tôi đi ra ngoài .
Đêm đó tôi đi cầu không biết bao nhiêu lần, trời thì mưa, tối như mực, đường rất trơn, tôi té không biết bao nhiêu lần. Khổ và mệt vô cùng vì miếng thịt luột. Hôm sau, tôi phải cáo bệnh vì không còn sức đi lao động. Cũng may, sau đó thì tôi trở lại bình thường, bụng đói meo vì không còn thứ gì, mệt ơi là mệt! Thật la miếng mỡ luột bào đời. Anh bạn nhà bếp cũng không khác vì tôi, anh ấy cũng tơi bời hoa lá vì miếng mỡ luộc…!
Thảm thương một kiếp tù đày,
Thịt thà teo hết, mặt mày xanh xao !
Bạn thương giấu mỡ đêm nào,
Đêm hôm tâm tối, ngồn ngào nuốt trôi.
Cắn miếng mỡ, thấm đôi môi,
Ngàn đời vẫn nhớ, anh, tôi trong tù.
Thời gian dù có mịt mù,
Lòng tôi cứ mãi thiên thu nhớ hoài,
Ân tình “ miếng mỡ” không phai,
Lòng tôi vẫn nghỉ những ngày bên anh …
Trong thời gian được cho nhận quà, hoặc cho phép thân nhân, gia đình đi thăm nuôi, món hàng được tù “ order” nhiều nhất lúc bây giờ là món tớp mỡ ngào đường, cái thực đơn nầy xuất phát từ hai cái thèm ngọt và chất béo là mỡ. Tôi cũng không ngoại lệ khi nhắn về gia đình cho vợ tôi lo ưu tiên là món nầy. Ngày tôi nhận được gói quà đầu tiên, khi mở ra tôi thấy lon guygoz đầy ắp “ mỡ ngào đường “ tôi mừng vô cùng . Khi tôi nhận được gói quà là lúc tôi đang nằm trên bệnh xá vì bị té xưng chân rất nặng tại trại K1/ Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Trên bệnh xá nầy có một số tù hình sự cũng đang bệnh nầy, bệnh nọ, nhiều nhất là bệnh kiết lỵ. Tù hình sự là chúa ăn cắp vì chúng thật thiếu thốn, vì vậy mà tôi không yên tâm khi có gói quà. Tôi nghỉ với lon guigoz tớp mỡ ngào đường tôi có thể để dành ăn lâu ngày. Đêm đó, tôi mở lon ra lấy một dúm ăn thử, ngon làm sao ! Tôi cất lại và lấy dây ràng rịt thật kỷ, để dưới cái giường. Nhưng nằm môt lát lại thòm thèm, tôi lại dậy và lục ra một dúm nữa để ăn, đêm đó vì cảm thấy quá ngon, tôi lên xuống nhiều lần trong đêm và ăn gần 1/3 lon guigoz. Kỷ niệm nầy không bao giờ tôi quên.
Từ khi cho thăm nuôi và gởi quà, nhờ có thức ăn, có thuốc men, nên người nầy tiếp tế cho người kia. Tình trạng sức khỏe của tù bắt đầu phục hồi khá hơn, tù bớt chết đi nhiều. Chẳng những tù có lương thực và thực phẩm bồi dưỡng sức khỏe mà cán bộ coi tù cũng được tù chia chác. Món mà họ thích và xin tù ăn là lạp xưỡng, mà họ gọi là con sâu mỡ. Hầu như họ chưa bao giờ biết món lạp xưỡng, vì vậy khi thấy tù nướng lập xưỡng, mỡ tươm ra. Họ hỏi :
-Các anh ăn con gì thế ?.
Một trong số bạn tù trả lời:
-Đó là con sâu mỡ đấy cán bộ .
Sau đó cho họ ăn thử và họ khen ngon quá, từ đó họ cứ hỏi và xin con sâu mỡ. Thật là tội nghiệp !
Có lần, trong đội tôi xãy ra tình trạng mất mát liên tục, thứ nhất là quà thăm nuôi, tình trạng nầy từ trước tơi nay chưa bao giờ xãy ra như thế, tình trạng nầy chỉ xãy ra khi có đám tù hình sự đến gần mà thôi. Người thì mất kem đánh răng, xà bông loại tốt, lạp xưỡng v..v.. khiến có tình trạng ngờ vực nội bộ. Nhưng một hôm, tôi không ngủ được vì trời nóng. Tôi nằm ngay cửa sổ, đêm hôm đó trời bên ngoài có trăng rất sáng. Khoảng hai, ba giờ đêm, tôi bổng nghe có tiếng lục lạo từ cửa sổ bên cạnh, tôi lắng tai nghe tiếng va chạm nhẹ và rồi tôi thấy một bóng tên công an đứng bên ngoài cửa sổ. Tôi chăm chú theo dỏi và anh ta thọt tay vào cái kệ của tôi để lục lạo, tôi hiểu rằng thủ phạm các vụ mất mát từ trước tới nay từ bên ngoài cửa sổ. Tôi liền lấy cái quạt và quạt mạnh cái mùng và ho lớn vài cái. Thế là anh ta rút tay ra khỏi cái kệ và đi chổ khác.
Sau khi phát hiện sự việc trên, tôi âm thầm cho anh em biết để hiểu và đề phòng cũng như đừng nghi ngờ lẫn nhau …
Bây giờ sống trong cài tuổi già tại một quê hương thứ hai, tôi vẫn nhớ, trước năm 75, mỗi khi có dịp đi ăn phở, tôi thường kêu thêm một chén nước béo với hành chành. Ngày đó không như bây giờ, ăn cái gì cũng sợ cholesterol, mua món hàng nào cũng coi kỷ có bao nhiêu cholesterol, nhớ lại miếng mỡ năm nào tại trại 6/ đoàn 776 và nhiều kỷ niệm trong tù, tôi vẫn thấy thương mấy người cán bộ công an hơn là ghét họ. Dù sao họ cũng là con người nhưng chẳng may cuộc đời họ sống trong một chế độ vô nhân và là môt kẻ thừa hành như một con ngựa bị che hai miếng da trước mắt. họ chỉ làm một chiều mà không hiểu gì.
Ngày nay sự thật lịch sử lần lần bị phơi bày, chế độ vô nhân rồi sẽ bị đào thãi cho dù có họ có che đậy như thế nào lòng dân vẫn chiến thắng. Sự bạo tàn sẽ không bao giờ tồn tại như lịch sử đã minh chứng…
Lão làm vườn/Sandiego.
No comments:
Post a Comment