Wednesday, September 8, 2010

Cai loi

                                                                           Cái Loi
Miền Nam đã chìm trong bóng tối sau ngày 30-4-75, chế độ CS đã hiện thực hiện trả thù bằng việc gồm hết các thành phần liên hệ đến chế độ VNCH vào các trại tập trung mà chúng gọi là trại “cải tạo”. Sau khi đã đưa hết quân, cán, chính thuộc chế độ Miền Nam vào tù, CSVN cho tiến hành chánh sách phân biệt đối xử bằng cách đẩy những gia đình liên hệ đến chánh quyền miền Nam vào các vùng kinh tế mới. Mặc khác, chúng ra sức sang bằng miền Nam bằng cách đánh tư sản, họ lên án thành phần tư sản của miền Nam và lần luợt đưa vào tù.
Đối với CS giàu là cái tội, khi chiếm miền Nam những cán binh CS đã không ngờ rằng người dân miền Nam đã có cuộc sống khá sung túc hơn miền Bắc. Trước đây cán binh CS bị tuyên truyền rằng, dưới sự áp bức của “Mỷ Ngụy”, dân miền Nam đã có một cuộc sống rất là khổ cực, người dân miền Nam sống rất khốn khó, nghèo đói nhưng sau khi miền Nam lọt vào tay của chúng, đa số cán binh đã ngạc nhiên về sự phồn vinh của miền Nam. Thật là tội nghiệp cho sự lạc hậu của nhiều cán binh CSBV khi họ chưa bao giờ thấy được những tiện nghi trong cuộc sống của người dân miền Nam. Thật vậy, tôi đã chứng kiến khi chiếm hotel Nam Đô của anh chị tôi ở đường Nguyễn Thái Học, nhiều cán binh CS cần đi “tiêu” họ chạy xuống hỏi chổ nào có “ hố xí ”, chúng tôi nói phòng nào cũng có, chúng lại tiếp tục xuống hỏi vì chúng không tìm thấy hố xí trong phòng ngủ, chúng tôi phải lên và chỉ cái toilet cũng như chỉ họ cách xử dụng.
Trong chủ trương sang bằng miền Nam, cũng như vơ vét của cải, tài sản đưa về miền Bắc và làm của riêng. Chúng đưa ra chánh sách cải tạo tư sản, vì vậy số phận của những nhà tư sản miền Nam cùng chung số phận với quân, cán, chính thuộc chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa. Thành phần tư sản miền Nam, bao gồm chủ nhân, giám đốc các công ty, xí nghiệp lần lượt vào tù, tài sản, của cải bị kiểm kê, tịch thu một cách trắng trợn. Trước đó, chúng dùng hệ thống truyền thông, phát động chiến dịch lên án thành phần tư sản mại bản. Chúng bắt thành phần nầy vào tù và chiếm hết tài sản của họ. Điển hình là tại Bình Dương, một người giàu nhất tỉnh là bà Bảy Lìn, một thương gia gốc Tàu, có người con trai là BS dược khoa Trần Tấn Thông, giáo sư tại đại học dược và là một dân biểu trong quốc hội VNCH. Người con trai bị vào trại cải tạo và mất trong trại cải tạo, bà Bảy Lìn thì bị đánh tư sản và cũng bị chết trong tù. Toàn bộ của cải tài sản bị tịch thu! Bà Bảy Lìn bị đối xử thật dã man trong tù, khi hay tin bà bị bệnh nặng, thân nhân xin thăm viếng để tiếp tế thuốc men, nhưng chúng dứt khoát không cho phép. Cuối cùng, bà ấy đã chết trong tù và không có mảnh chiếu bó thây. Thật là một chế độ độc ác, coi mạng người còn thua một con vật …
Song song việc đánh tư sản, chúng ra sức nhồi nhét nhân dân miền Nam bằng một loại văn hóa phục vụ cho đảng CSVN, chúng mở chiến dịch tịch thu toàn bộ văn hóa phẩm, bao gồm sách vở, báo chí miền Nam, chúng gọi là sách báo phản động. Những văn nghệ sỉ miền Nam lần lượt vào tù, chúng dùng thành phần gọi là thành phần 30/4/75 hoạt động liên tục ngày đem ra sức khám xét nhà, nhất là nhà của thành phần có liên hệ đến chế độ miền Nam. Mặc khác, chúng xây dựng hệ thống kềm kẹp hạ tầng cơ sở, tổ chức các tổ dân phố, hệ thống công an xuống tận phường xã, công an khu vực như những cú, lúc nào cũng rình rập, nghe ngóng và theo dỏi, nhất là những gia đình mà người thân đang bị tập trung vào các trại tù trong khắp nước.
Sau khi đã tập trung tất cả quân, cán, chính vào tù, đánh tư sản để cướp của, xóa sạch văn hóa của chế độ miền Nam, đẩy gia đình mà chúng cho là có nợ máu vào vùng kinh tế mới. Chúng cho tiến hành một chế độ kềm kẹp người dân một cách thật tinh vi là dùng chánh sách “CHẾ ĐỘ HỘ KHẨU”. Với chế độ hộ khẩu, mọi sự tự do của người dân hoàn toàn mất hết, dùng chế độ hộ khẩu, họ dễ dàng nắm bao tử của nguời dân. Nhu yếu phẩm đuợc cân đo, đông, đếm theo danh sách từng người. Ban đêm chúng thường xuyên kiểm soát nhà và bắt giam những người không có tên trong cái gọi là hộ khẩu. Chúng dùng chế độ “TẠM TRÚ, TẠM VẮNG”, như là một hình thức kiểm soát mọi sự đi lại của nguời dân. Mặc khác, chúng dùng chế độ “TỖ DÂN PHỐ” để kiểm soát sinh hoạt của từng nhà, phê bình, kiểm điểm nếu người nhà vắng mặt không tham dự các buổi hợp tổ. Biện pháp kỷ luật là ngưng cung cấp nhu yếu phẩm, hoặc bị đặt trong tình trạng theo dỏi đặc biệt…
Trước tình trạng cuộc sống càng ngày càng khó khăn, mọi sự tự do không còn. Sinh hoạt bị theo dỏi thường xuyên bởi tai, mắt của công an. Tôi nghiệp là giới phụ nử, họ không dám ăn mặc lịch sự, họ không dám ăn diện vì sợ bị phê bình kiểm điểm, chiếc áo dài xinh xắn đã biến mất tại miền Nam sau ngày 30-4-75, họ cắt móng tay sát rạt, mặc chiếc áo bà ba bình thường, không dám trang sức, họ sợ làm đẹp thì có thể bị phê bình, kiểm điểm và bị ảnh hưởng đối với gia đình. Không khí lo sợ bao trùm trên mọi gia đinh, trong mọi khu phố, người dân sống trong sự lo âu, họ sợ tai, mắt công an vì luôn có sự bắt bớ bất ngờ mà không ai biết trước. Công an tự động đến nhà đọc lệnh và bắt đi mà không cho biết nơi giam giữ. Cuộc sống thường ngày của người dân hoàn toàn mất tự do!
Dân chúng miền Nam bắt đầu nhận rõ bộ mặt thật của CS, họ nhận thấy chế độ CS đã không như sự tuyên truyền trước đây của chúng, họ đã hiện nguyên hình là một chế độ độc tài đảng trị, họ tước bỏ mọi sự tự do căn bản của con người và sẵn sàng tiêu diệt mọi sự chống đối của người dân. Họ áp dụng chế độ phân biệt đối xử, nhất là đối với con cháu của các gia đinh tù cải tạo. Trong lảnh vực giáo dục, con cái có dính liếu đến cha mẹ nguyên là công chức, quân nhân hoặc các đảng phái chánh trị tại miền Nam thì không được một ưu tiên nào trong việc học lên đại học, trong khi con cái của đảng viên CS thì được ưu tiên mọi mặt. Mọi người cảm thấy một bầu không khí nghẹt thở. Dân chúng miền Nam cảm thấy thất vọng, nhất là thành phần trí thức thuộc chế đô miền Nam. Họ hoàn toàn không được trọng dụng, trái lại bị ngược đải bởi cán bộ dốt nát ngoài Bắc vào.
Đáng thương nhất là thành phần thương phế binh VNCH, họ bị xua đuổi khỏi các quân y viện, với những thương tật chưa lành lặn, thân tàn ma dại, lại bị chánh quyền CS ngược đải một cách vô nhân đạo. Cuộc sống của họ đến giờ nầy nếu họ còn sống, thật là muôn vàng khó khăn, có thể nói sống không bằng chết, đều này tôi nghỉ có thể đúng trong tâm trạng của họ. Họ kéo dài cuộc sống một cách bất hạnh trên khắp nẻo đường đất nước, hoặc bằng cách bán vé số, vá xe đạp, hoặc không còn cách nào hơn là đi xin của bố thí của khách qua đường.
Gia đình của tù cải tạo cũng lâm vào cảnh khốn đốn, nếu người vợ là viên chức nhà nước, hoặc bị mất việc, hoặc cũng vào tù như chồng, cuộc sống cũng đi vào ngỏ bế tắc, của cải còn lại lần luợt bán sạch. Họ phải đi buôn chuyến hoặc buôn bán chợ trời, hoặc đánh liều buôn lậu thuốc tây, hoặc bán thuốc lá, ngày được ngày mất, hầu kiếm được tiền để thăm nuôi chồng trong trai tù, nhất là thành phần bị đưa ra tận miền Bắc. Nhiều cán bộ CS nhân cơ hội nầy phá hoại gia can những gia đinh tù cải tạo, nhiều gia đình sau nầy bị ly tán, vợ con xa cách không còn đoàn tựu đuợc…!
Nông thôn là nơi người dân bị tuyên truyền nhiều nhất, họ là nơi mà CS dựa vào làm điểm tựa để xâm nhập, hoạt động du kích và tiến chiếm miền Nam. Nhưng thực tế thật phủ phàng! Người dân nông thôn nhận thấy hoàn toàn trái ngược với những gì họ bị cộng sản tuyên truyền, ngày nay họ hoàn toàn mất tất cả quyền canh tác đất đai như khi còn chế độ VNCH, họ bị bắt buộc phải vào Hợp Tác Xã, phải tuân thủ theo quy định một cách khắc khe, từ hột giống đến phân bón kể cả lợi nhuận.. v..v..Khi gặt hái, kết quả, huê lợi bị cắt xén, giao nộp, nguời nông dân hoàn toàn không còn đủ ăn như trước năm 75.
Tôi nhớ một kỷ niệm khó quên vào năm 1985, sau khi được ra khỏi trại tù, tôi có dịp về miền quê để thăm nguời tài xế củ, nguời nầy hiện đang sống tại quê vợ tại vùng nông thôn vùng Paris Tân Quy, nơi tôi có dịp hành quân khi còn làm đại đội truởng, chính tôi đã thay mặt gia đinh nguời tài xế để hỏi vợ cho anh ta. Trong bữa cơm với sự hiện diện của nguời mẹ vợ, tôi được giới thiệu với nguời anh vợ, anh nầy nguyên là một VC mới về sau năm 75, có một thời làm xã trưởng, nhưng khi gặp tôi thì anh ta không còn làm nữ. Anh ta vui vẽ nói với tôi:
- Nếu mà tôi biết VC như thế nầy thì ngày trước tôi đã theo quốc gia rồi!
Anh ta tiếc là đã đi lầm đuờng.
Chế độ CS lần lần lộ nguyên hình, người dân miền Nam đã bắt đầu không còn một sự lựa chọn nào khác bằng cách tìm tự do, họ chấp nhận moi sự nguy hiểm, bị bắt bớ giam cầm tù đày, hoặc thoát khỏi chế độ CS bạo tàn. Họ vượt biển bằng những con thuyền mong manh, bé nhỏ, họ chấp nhân cái sống tự do trong cái chết. Họ vượt biên bằng đôi chân qua biên giới, với muôn ngàn hiểm nguy chờ đợi trước mắt. Biết bao nhiêu người dân vô tội chết mất xác nơi rừng sâu, nơi biển cả, chỉ vì muốn trốn một chế độ CSVN. Nhiều người là nạn nhân của hải tặc Thái Lan, hoặc làm mồi cho cá chỉ vì hai chử tự do. Măc khác nhà cầm quyền CSVN khai thác sự khao khát tự do của dân chúng trong nước, họ tổ chức vượt biên bán chánh thức để lấy vàng, thành phần nầy đa số là người Hoa. Một câu nói lịch sử không còn nhớ ai là tác giả rằng : “nếu cái cột đèn biết đi nó cũng ra đi”.
Dân chúng miền Nam bỏ nước ra đi đã là một thảm cảnh làm đánh động lương tâm thế giới, các nước phương tây bao gồm các quốc gia Pháp, Anh, Đức, Mỹ đã tổ chức nhiều chuyến tàu hướng về biển Đông để cứu vớt người vượt biển. Liên Hiệp Quốc không thể im tiếng, một mặt lên án chế độ độc tài CSVN, một mặt họ can thiệp các quốc gia tại Đông Nam Á đứng ra thiết lập các trại tỵ nạn để tiếp nhận số người tỵ nạn VN đến một ngày một đông. Thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam không bút mực nào có thể tả hết được. Trang sử đau buồn nầy là một bản án của chế độ bạo tàn CSVN sau nầy.
Khi bước ra khỏi tù vào năm 85, sum hợp với gia đinh là một điều rất vui mừng, nhưng ra khỏi lớp tù trong, sống tiếp tục trong lớp tù ngoài, tôi vẫn cảm thấy ngột ngat. Điều rất vui mừng nhất của tôi là khi vợ tôi cho tôi xem lại tất cả hồ sơ cá nhân về quân đội mà vợ tôi vẫn còn giử lai một cách đầy đũ, không thiếu một thứ gì. Từ tướng mạo quân vụ, bằng cấp tốt nghiệp khi học tại Fort Knock Kentucky vào năm 68, các album hình ảnh, bằng tốt nghiệp tại trường Vỏ Bị quốc gia tại Đalat ..v..v..Tôi lập tức viết hai lá thư kèm theo photocopy những hồ sơ quân sự mà tôi có.Tôi gởi hai nơi, một cho tòa đại sứ Mỷ tại Thái Lan, một cho ông cao ũy LHQ đặc trách tỵ nạn, tôi nhờ nguời gởi chui trong bưu điện Saigon không qua kiểm duyệt. Chẵng bao lâu sau, tôi nhận được cái L .O.I viết tắt chử “ letter of introduction” tức là thư giới thiệu của tòa đại sứ Mỹ tại Thái Lan yêu cầu chánh phủ Việt Nam cấp chiếu khán xuất cảnh cho các người có tên trong danh sách để đi Hoa Kỳ. Thật tình mà nói, trước đây tôi nghe người ta nói nhiều về cái “ loi ”. Người nầy nói tôi nhận đuợc cái “ loi”, người kia nói tôi cũng có cái “loi” nhưng thú thực tôi chưa bao giờ biết cái “loi” là gì mà ai có nó cũng hết sức vui mừng. Nay chinh tay tôi thật sự cầm lấy nó, được gởi từ tòa đại sứ Mỹ tại Bangkok Thái Lan, cái thư trả lời mà tôi rất mong đợi sau khi gởi hồ sơ đi chui.
Mở thư ra đọc, cả nhà tôi đều vui mừng, một nổi vui mừng khó diển tả được, tôi mới hiểu thực sự tại vì sao mà mọi người vui mừng khi có cái “loi” trong tay. Tôi mới hiểu cái “loi”là gì, tôi nâng niu cái “ loi ” như mới vừa nhận được bão vật, tôi đọc tới đọc lui từng chữ, coi hết mọi tên họ theo danh sách, thấy đầy đũ mọi người trong gia đinh. Gia đình anh chị, họ hàng hai bên, tất cả được thông báo đều mừng cho gia đinh tôi …
Từ khi được về với gia đinh, tôi luôn luôn được sự theo dỏi của công an khu vực, thỉnh thoảng người khách không mời nầy tới nhà thăm hỏi, tôi phải đến phường công an hàng tuần với sổ báo cáo công việc làm hàng ngày. Đêm đêm tôi rà đài BBC và VOA để theo dỏi tin tức, nhất là tin tức về việc đàm phán giữa chánh phủ Mỹ và VNCS về chương trình HO. Tôi rất cám ơn vị ân nhân là bà Khúc Minh Thơ, nguời đã không quảng ngại bao khó khăn tranh đấu cho chúng tôi được ra đi tìm tự do và có cuộc sống mới ngày hôm nay. Con đường ra đi của chúng tôi không hoàn toàn suông sẽ, chúng buộc chúng tôi phải giao ngôi nhà cho chúng, vì tôi thuộc diện bị tịch thu nhà, nếu không chịu giao thì không được ra đi…
Ngày hôm nay, cuộc sống gia đình của chúng tôi đã đi vào ổn định sau gần 20 năm định cư tại Mỹ, chúng tôi cũng như hầu hết gia đinh HO khác con cái hầu như thành đạt, tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm đàng hoàn.Thế hệ này đang đóng góp vào sự phồn thịnh của quê hương thứ hai. Cái mà con cái chúng tôi đều không làm được ở quê hương mình khi mà vẫn còn chế độ CS ngự trị.
Trước sự thành công của cộng đồng VN tại hải ngoại, thế hệ thứ hai đang hội nhập vào dòng chính của quê hương thứ hai . Hàng năm cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản gởi tiền về VN để giúp đở cho thân nhân tại quê nhà, số tiền hiện nay lên đến hàng chục tỉ Mỹ kim. Bọn CSVN ra sức chiêu dụ Việt kiều bằng nhiều hình thức và những lời hoa mỹ như núm ruột ngàn dậm, quên đi quá khứ ,xóa bỏ hận thù, hãy về xây dựng quê hương. Thực tế, một vài người nhẹ dạ, nghe lời đường mật, đưa vốn liếng dành dụm được về đầu tư tại VN, cuối cùng phải bỏ cuộc, một số bị mất của vào tù, một vài nguời cuối cùng phải bỏ của chạy lấy người, có người bị chết một cách khó hiểu,
Mặc khác, để khai thác triệt để mỏ vàng tại hải ngoại, CSVN đã giao gánh nặng xã hội trong nước cho cộng đồng VN tại hải ngoại gánh vác. Chúng ra sức kêu gọi cộng đồng người Việt hải ngoại làm công tác từ thiện, càng làm từ thiện càng nhiều càng tốt, từ việc cứu giúp nạn nhân bảo lụt, trẻ em khuyết tật, người già neo đơn .v.v..Thật vậy, chúng ta thấy mục sư Bão ra sức quyên góp, mang hàng ngàn bao gạo, bao nhiêu xe lắc tay về VN, nếu không có sự tiếp tay của VC thì làm sao ai dám tập trung hàng trăm dân đến các địa diểm phân phát một cách đường hoàng như vậy, nếu như không được phép của chánh quyền trong nước. Dân tập trung đông đảo tức phải có phép của nhà cầm quyền CS, cá nhân mục su Bão không thể nào làm được việc nầy. Trong khi đó, cán bộ, đảng viên có chức, có quyền thi nhau tham nhũng, nhất là tiền cứu trợ cho nạn nhân bị thiên tai, tiền viện trợ cho VN trong công cuộc xóa đói, giãm nghèo. v.v..Nhiều cán bộ vung tiền ăn chơi một cách hoang phi, đánh cá độ hàng triệu đô, mua sắm xe đắc tiền hơn một triêu đô la một chiếc. Đưa cả một đoàn văn nghê ra nước ngoài nhầm tuyên truyền, mặc cho tổn phi cho mổi chuyến lưu diễn tốn hàng triệu đô la với mục tiêu đánh phá cộng đồng người Việt tại hải ngoại theo nghị quyết 36. Bạo quyền CS không cần biết đời sống người dân ra sao, chúng ra sức trấn áp, kềm kẹp mọi sự chống đối của nhiều thành phần dân chúng trong nước. Chúng dùng lực lượng công an và quân đội để bảo vệ cho đảng CS và đè bẹp mọi sự chống lai chúng.
Điều đáng mừng người dân trong nước hiện nay không còn sợ đảng CS. Họ thấy rõ đảng CSVN đã tước bỏ mọi quyền tự do căn bản của con người khi so sánh với các quốc gia khác. CSVN ngày nay không thể bưng bít thông tin như trước đây, mọi diển biến, tin tức đều có thể thông tin cho nhau một cách nhanh chống dù rằng chế độ CS vẫn luôn kiểm soát mọi phương tiện truyền thông trong nước, như báo chí, truyền thanh và truyền hình một cách chặt chẻ, kể cả internet. Các phong trào đấu tranh lần lượt nổi lên và có sự liên kết bao gồm nhiều thành phần, nhất là giới trí thức trẻ đã nhập cuộc thể hiện qua khối 8406. Những người trẻ tiêu biểu như LS Lê Thi Công Nhân, LS Nguyễn Văn Đài và gần đây nhất phong trào sinh viên biểu tình chống Trung Quốc về việc TQ đã chiếm 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Điều nầy cũng làm cho đảng CSVN bối rối, một mặt phải ra sức ngăn chận việc biểu tình của sinh viên, vì sợ làm mất lòng quan thầy TQ, mặt khác nếu ngăn chận sự biễu tình có nghia là đảng CSVN lộ rõ bộ mặt là kẻ bán nước. Thà làm kẻ bán nước hơn là làm mất lòng TQ, đảng CSVN lộ rõ bộ mặt là làm thái thú cho quan thầy TQ. Chính thủ tướng cs Phạm Văn Đồng là một kẻ bán nước với một văn thư không còn có thể chối cải vào đâu được. Đối với quan thầy TQ thì dâng đất, dâng biển, đối với nhân dân trong nước thì dùng thế lực cướp đất, người dân bị áp bức, mất đất, mất ruộng không còn có thể chịu đựng được nữa, họ đã bắt đầu đứng lên đòi lại cái quyền tư hữu hợp pháp, đòi lại công lý khi mà tài sản của họ bị tướt đoạt bằng bạo lực.Từng đoàn người dân oan, kiên trì biểu tình bất bạo động nổi lên khắp nơi. Nhà nuớc tiếp tục dùng lực lượng công an đàn áp, giải tán nhưng cũng không dập tắt được phong trào dân oan nầy. Phong trào dân oan chưa dứt, kế tiếp phong trào giáo dân công giáo cũng bộc phát một cách một cách kiên trì, những buổi cầu nguyện ôn hòa với hàng ngàn giáo dân tại Hà Nội và giáo sứ Thái Hà. Bon CSVN phải dùng những thủ đoạn thật hèn hạ nhất để đàn áp, như mướn thành phần du đảng đánh đập giáo dân, dùng roi điện, hơi cay, vòi nước để giải tán sự cầu nguyện môt cách ôn hòa của giáo dân. Tệ hai hơn nữa là họ cướp máy ảnh và đánh trọng thương phóng viên nước ngoài làm công tác truyền thông tại chổ…Thật là một chế độ phi nhân, một chế độ không có luật pháp là đảng CSVN… Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã nói một câu để đời là “Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỷ những gì CS làm”. Câu nói nầy đã đi vào lịch sữ vì nó hoàn toàn đúng với bản chất lật lọng, tráo trở đối với bất cứ chế độ CS nào còn lại hiện nay…
Phương tiện cần thiết cho những nạn nhân của cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ chính là cái LOI , khi nhận được cái LOI, tôi hiểu rằng nó chính là thần hộ mệnh của chúng ta, chính nó đã giúp cho chúng ta thoát khỏi bàn tay loài ác quỷ CS trong nước. Mọi nguời trong chúng ta nâng niu nó,vì ước vọng chung của chúng ta là sớm thoát khỏi chế độ CS. Vì vậy chúng ta, những người đã từng có cái LOI trong tay không chấp nhận CS, chúng ta có chung một căn cước. Cái LOI coi như là cái căn cước đầu tiên của những người tỵ nạn CS vậy.
Ngày nay rất tiếc trong số những người trước đây khi cầm cái LOI như là cái bùa hộ mệnh, sau nhiều năm ăn nên, làm ra ở xứ nguời, một số người đã quên mất ý nghỉa của cái LOI ấy. Họ vì quyền lợi riêng tư, nghe lời đường mật của CSVN, về nước như một “núm ruột ngàn dậm”, hoặc góp tiền đầu tư, hoặc ăn chơi phè phỡn với những hành động trác táng trên sự đau khỗ của dân lành. Họ dùng tiền mua vui với những phụ nử vì quá khỗ đành bán trôn nuôi miệng và nuôi gia đình, hoăc làm nhiều việc mất tư cách, trong sự đau khổ của những nguời từng là chiến hửu của họ. Những người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang sống bất hạnh triền miên trong nước!
Hãy nhớ lại đi những nguời đã có cái LOI ngày truớc. Đừng về nước rồi quên hết tất cả, đừng dùng ngoại tệ, phè phỡn ăn chơi như lũ tư bản đỏ trong nước. Phải nhận diện kẻ thù mà dứt khoát, chúng ta không bao giờ quên đi quá khứ khổ đau của dân tộc, trừ khi chế độ CS không còn.
Tại hải ngoại, CSVN ra sức đánh phá, gây chia rẽ sự đoàn kết của công đồng VN tại hải ngoại. Chúng mua chuộc những người có cái LOI trước đây, gây phân hóa, tị hiềm lẩn nhau, hầu làm suy yếu căn cứ địa hải ngoại của chúng ta. Chúng ta cần bình tỉnh, dứt khoát nhận rỏ mục tiêu của CSVN, chúng ta đừng bao giờ tin vào những bài báo có tánh cách đánh phá cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, những bài báo nhầm mục đích làm suy yếu những người có uy tín trong cộng đồng. Những bài báo có tánh cách nhục mạ vô căn cứ, những bài viết tố cáo lẩn nhau một cách vu vơ, tất cả là nhầm vào chia rẽ sự đoàn kết của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta hảy mạnh dạn giúp cho thế hệ trẻ gánh vác trách nhiệm những con cháu chúng ta có kiến thức, cái nhìn thiết thực hơn, phù hợp cho sự đấu tranh nối tiếp hửu hiệu sau nầy.
Rất mong mọi người trong chúng ta đều nhớ ý nghỉa của cái LOI thuở ban đầu và biến cái LOI nầy thành quả đấm đánh tan đảng CSVN tai quê nhà.
Lão làm vườn.

No comments:

Post a Comment